Chín khẩu thần công được chia làm 2 nhóm: Nhóm "Tứ thời" gồm 4 khẩu Xuân - Hạ - Thu - Đông và nhóm "Ngũ hành" gồm 5 khẩu Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Trước kia, cửu vị thần công được đặt trước Ngọ Môn - cửa chính của Hoàng thành, trong hai dãy Pháo xưởng; nay được đặt ở cửa Thể Nhơn (cửa Ngăn) và cửa Quảng Đức (cửa Sập) của Kinh thành Huế.
Mỗi khẩu thần công có chiều dài 5,1m với đường kính trong của nòng là 22,5cm; trên thân có khắc nhiều chi tiết hoa văn trang trí tinh xảo và các bài văn ngắn nói về lai lịch của thần công. Chuôi thần công có khắc tên và thứ bậc của mỗi khẩu, như khẩu Xuân được mệnh danh là "Đệ nhất cửu vị thần uy"... Trên gối đỡ có khắc bài văn nói về cách pha chế thuốc đạn.
Tranh trong tập san “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Những người bạn Cố đô Huế) số 2 Avril-Juin 1914. Bản dịch của NXB Thuận Hóa. (Ảnh: Manhhai, Flickr, CC BY 2.0)
Chín khẩu súng đều có kích thước và trọng lượng rất lớn, trung bình mỗi khẩu là 11.000kg. Mỗi khẩu súng được kê trên cái giá bằng gỗ chạm trổ rất công phu. Hai bên giá có 4 bánh xe bằng gỗ viền sắt để tiện cho việc di chuyển. Thân súng có khắc chữ, khắc hoa văn trang trí.
Ngoài tên súng, niên đại năm Gia Long thứ 3 (1804), thân súng còn được khắc trọng lượng từng khẩu theo đơn vị cân ta (khẩu nặng nhất 18.400 cân, khẩu nhẹ nhất 17.200 cân). Đối xứng với mỗi chỗ ghi trọng lượng trên mỗi khẩu còn có một bài văn ngắn nêu lý do đúc súng, cách chế thuốc đạn để bắn. Vào năm 1816, vua Gia Long sắc phong cho cả 9 khẩu đại bác này danh hiệu: "Thần Oai Vô địch Thượng tướng quân". Danh hiệu này và nội dung bài sắc phong đều được khắc trên cả 9 khẩu.
Ngoài ra, có các hoa văn trang trí bằng hoa, lá và có gắn hai quai lớn hình hai con lân rất tinh xảo. Trên súng cũng khắc tên những người điều khiển thi công đúc các khẩu súng này là Đô thống chế Nguyễn Văn Khiêm, cai cơ Hoàng Văn Cẩn, cai cơ Cái Văn Hiếu và Tham tri bộ công Phan Tiến Cẩn.