1. BỘ CỬU VỊ THẦN CÔNG
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long ra lệnh thu thập tất cả các binh khí và vật dụng bằng đồng để đúc thành 9 khẩu thần công để làm vật chứng cho chiến thắng. Bộ Cửu vị thần công được coi là tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ, thể hiện nghệ thuật - kỹ thuật luyện kim và đúc đồng đỉnh cao thời Nguyễn. Cửu vị thần công là chín khẩu súng thờ, tượng trưng cho những vị thần linh bảo vệ kinh thành, được các nghệ nhân Huế đúc năm Gia Long thứ hai (1803), hoàn thành vào tháng 12/1804 và cho đặt gần cửa Thể Nhơn và cửa Quảng Ðức bên trong Kinh thành Huế.
Năm 1816, chín khẩu thần công này được triều đình tặng thêm tên mới là “Thần oai vô địch thượng tướng công cửu vị”.
(Ảnh: Kiến Thức)
Chín khẩu thần công được chia làm 2 nhóm: Nhóm "Tứ thời" gồm 4 khẩu Xuân - Hạ - Thu - Đông và nhóm "Ngũ hành" gồm 5 khẩu Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Mỗi khẩu thần công có chiều dài 5,1m với đường kính trong của nòng là 22,5cm; trên thân có khắc nhiều chi tiết hoa văn trang trí tinh xảo và các bài văn ngắn nói về lai lịch của thần công. Chuôi thần công có khắc tên và thứ bậc của mỗi khẩu. Trên gối đỡ có khắc bài văn nói về cách pha chế thuốc đạn.
Chín khẩu súng đều có kích thước và trọng lượng rất lớn, trung bình mỗi khẩu là 11.000kg. Mỗi khẩu súng được kê trên cái giá bằng gỗ chạm trổ rất công phu. Hai bên giá có 4 bánh xe bằng gỗ viền sắt để tiện cho việc di chuyển. Đối xứng với mỗi chỗ ghi trọng lượng trên mỗi khẩu còn có một bài văn ngắn nêu lý do đúc súng, cách chế thuốc đạn để bắn. Thân súng có khắc chữ và khắc hoa văn trang trí hoa, lá và có gắn hai quai lớn hình hai con lân rất tinh xảo.
Trải qua hơn 200 năm, cửu vị thần công vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn, hiện diện như một phần quan trọng trong hệ thống di sản văn hóa của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 1/10/2012, cửu vị thần công được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia Việt Nam.
2. BỘ CỬU ĐỈNH
Cùng với Cửu vị thần công, Cửu đỉnh cũng là Bảo vật Quốc gia được công nhận đồng thời vào năm 2012 theo Quyết định số 1426 /QĐ-TTg ngày 01/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài tính biểu trưng cho các vị vua, thể hiện quyền lực của vương triều nhà Nguyễn thì Cửu đỉnh như một bộ “Địa dư chí lược” của Việt Nam đầu thế kỷ XIX được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình với tổng cộng 162 họa tiết được chạm nổi tinh xảo, là biểu tượng về sự giàu đẹp, thống nhất đất nước và ước mơ triều đại vững bền, hùng mạnh.
Cửu đỉnh là 9 chiếc đỉnh đồng to lớn được vua Minh Mạng cho đúc vào năm 1835, với hơn 20.000 kg đồng, chì, kẽm. Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông; cũng là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc Cửu Đỉnh cho triều đại mình: Tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9.
(Ảnh: TTXVN)
Với chức năng là trọng khí được đặt trước sân Thế Miếu của nhà Nguyễn, tượng trưng cho sự nghiệp của bậc đế vương, tên gọi của mỗi đỉnh theo chủ ý của vua Minh Mạng đó chính là thụy hiệu của các vua triều Nguyễn. "Cửu đỉnh" được đặt ở phía trước Thế Tổ miếu ứng với 9 gian thờ của các vua triều Nguyễn. Cụ thể: Đặt chính giữa sân là Cao đỉnh, tượng trưng cho miếu hiệu Cao Thế tổ hoàng đế Gia Long, người sáng lập ra triều Nguyễn. Hàng bên trái Cao đỉnh lần lượt là: Nhân đỉnh đối diện với án thờ vua Minh Mạng; Anh đỉnh đối diện với án thờ vua Tự Đức; Thuần đỉnh đối diện với án thờ vua Đồng Khánh; Dũ đỉnh đối diện với án thờ vua Hàm Nghi. Hàng bên phải Cao đỉnh gồm: Chương đỉnh dối diện với án thờ vua Thiệu Trị; Nghị đỉnh đối diện với án thờ vua Kiến Phúc; Tuyên đỉnh đối diện với án thờ vua Khải Định; Huyền đỉnh đối diện với án thờ vua Duy Tân.
Cả 9 chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau: Bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có 3 chân. Mỗi chiếc đỉnh đều cao khoảng từ 2,3 đến 2,5 m, được đúc với thiết kế quai và chân riêng biệt. Trọng lượng mỗi đỉnh từ 3.200 kg đến hơn 4.300 kg. Trên thân đỉnh, các dòng ghi chú bằng tiếng Hán về niên đại, trọng lượng và tên đỉnh, kèm theo hình tượng chạm nổi về núi sông, văn vật nước Đại Nam trong thế kỷ XIX.
Trải qua hơn 200 năm, đi qua bao cuộc chiến tranh tàn khốc, song đến nay, Cửu đỉnh vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu.
3. ĐẠI HỒNG CHUNG CHÙA THIÊN MỤ
Đại Hồng Chung chùa Thiên Mụ là một pháp khí quan trọng được chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) - nối đời thứ 30 dòng thiền Tào Động, pháp danh Hưng Long, cho đúc vào năm 1710 để cúng dường đức Phật. Chuông nặng 3285 cân (hơn 2000kg), cao 2,5m, đường kính miệng 1,4m, có hình dáng cân đối; hoa văn và những motif trên thân chuông được chạm trổ tinh vi, sắc nét với các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của cả 3 luồng tư tưởng lớn của Á Đông là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo, thể hiện ước nguyện mưa thuận gió hòa, đất nước thái bình, nhân dân yên ổn, vẹn toàn trí tuệ Phật pháp.
Chuông chùa Thiên Mụ là một trong những quả chuông chùa lâu đời và có giá trị nhiều mặt ở cố đô Huế, là công trình tiêu biểu về giá trị mỹ thuật trang trí cũng như hội tụ các nét đặc trưng của nghệ thuật đúc đồng tinh xảo, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển của Phật giáo Đàng Trong vào giai đoạn cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII.
(Ảnh: vivu247)
Đại Hồng Chung chùa Thiên Mụ được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam năm 2013. Xem thêm hình ảnh 3600 về Đại Hồng Chung Chùa Thiên Mụ TẠI ĐÂY.
4. NGAI VUA TRIỀU NGUYỄN
Ngai vua triều Nguyễn là biểu trưng cao nhất về quyền lực thời quân chủ, cũng là chiếc ngai cuối cùng trong lịch sử các triều đại ở Việt Nam còn được bảo tồn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay.
Ngai vua triều Nguyễn (Niên đại: 1802 – 1945, hiện lưu giữ tại điện Thái Hòa thuộc di tích Cố đô Huế, do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế).
(Ảnh: Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế)
Ngai vua triều Nguyễn được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong điện Thái Hòa, nơi nhà vua thiết đại triều mỗi tháng 2 lần vào ngày mồng 1 và ngày 15 âm lịch, cũng là nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng của triều đình (lễ đăng quang của nhà vua, lễ sinh nhật, lễ tiếp kiến các sứ thần...). Ngai được làm bằng gỗ, sơn son thếp vàng. Phía trên ngai là bửu tán thếp vàng, chạm trổ hình rồng hết sức sinh động. Các mảng trang trí chạm khắc và thếp vàng rực rỡ không chỉ mang vẻ đẹp lộng lẫy, uy nghiêm của chốn hoàng cung mà còn thể hiện sự tinh xảo trong kỹ nghệ chạm khắc của nghệ nhân đương thời.
Ngai vua triều Nguyễn được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam năm 2015.
5. BIA KHIÊM CUNG KÝ
Bia Khiêm Cung Ký là tấm bia khắc bài văn bia do chính hoàng đế Tự Đức (1848-1883) soạn thảo năm 1871.
Bia hình chữ nhật. Hai mặt bia trang trí giống nhau nhưng bản khắc văn tự khác nhau. Trán bia hình khánh, chạm nổi đồ án “long vân” với hình mặt rồng chính diện ở phía trên và chòm đuôi xoắn ở phía dưới, xung quanh là hình mây và các đao lửa. Bốn tai bia chạm bốn hình rồng, trong đó hai tai bia phía trên chạm nổi đồ án “long thăng”; bốn tai bia phía dưới chạm nổi đồ án “hồi long”. Đường viền bia chạm nổi các đồ án “lưỡng long triều nhật”, “long thăng”, “long giáng”. Bệ bia tạo dáng chân quỳ, chạm trổ công phu: mặt ngoài chạm nổi và chạm lộng các đồ án rồng, mây, mặt hổ phù và hồi văn chữ S gấp khúc. Toàn bộ bia và bệ bia được đặt trên một nền đá thanh hai tầng, bốn phía có hệ thống bậc cấp.
Tất cả bia tại các lăng hoàng đế thời Nguyễn đều do vị hoàng đế kế nghiệp sáng tác với nội dung đề cao công lao, đức hạnh của vị hoàng đế đã mất, thường gọi là Thánh đức thần công bi ký. Riêng bia Khiêm Cung Ký do hoàng đế Tự Đức soạn thảo và nội dung bia ghi lại quá trình xây dựng lăng, mô tả cảnh quan lăng, đồng thời bày tỏ nỗi lòng của ông đối với đất nước cùng những việc riêng tư. Chính vì vậy, bia Khiêm Cung Ký là tấm bia độc bản, không trùng với bất cứ nội dung bia nào khác.
(Ảnh: Tri thức Trực tuyến)
Đây là tấm bia có số lượng văn tự nhiều nhất ở Việt Nam với 4.935 chữ Hán khắc trên cả hai mặt bia, cũng là tấm bia có kích thước đồ sộ, trọng lượng lớn nhất trong các bia cùng loại ở lăng hoàng đế thời Nguyễn.
Hội đủ các đặc trưng của phong cách bia ký thời Nguyễn (bia hình chữ nhật, trán bia hình khánh, bốn góc có tai bia…), nhưng bia Khiêm Cung Ký là một tấm bia có kích thước đồ sộ, trọng lượng lớn nhất trong các bia cùng loại ở lăng hoàng đế thời Nguyễn. Đặt biệt, bia Khiêm Cung Ký được đặt trong một nhà bia khá cao, giới hạn xung quanh bởi 04 trụ biểu lớn, tạo sự tương xứng toàn diện trong tổng thể kỳ vĩ của Khiêm lăng.
Xem 3600 về Bia Khiêm Cung Ký (Lăng vua Tự Đức)
Với 4.935 chữ Hán khắc trên hai mặt bia, bia Khiêm Cung Ký là tấm bia có số lượng văn tự khắc trên đá nhiều nhất. Đặc biệt bia Khiêm Cung Ký cũng là tấm bia duy nhât lưu giữ nét bút của chính tác giả văn bia - hoàng đế Tự Đức. Vì vậy, xét cả về nghệ thuật tạo hình, trang trí mỹ thuật và kỹ thuật chạm khắc, bia Khiêm Cung Ký có hình thức độc đáo nhất trong các bia lăng hoàng đế thời Nguyễn.
Nội dung văn bia không chỉ ghi lại tâm tư của một vị hoàng đế đang trong tình trạng “lực bất tòng tâm” trước nhiều thử thách và sự đổi thay của vận mệnh đất nước, mà còn cung cấp những thông tin cụ thể về hình thế cảnh quan phong thủy xung quanh khu vực lăng mộ của nhà vua: “Những núi đưa mạch đất từ xa đến gần, gọi là Dẫn Khiêm, Lao Khiêm, Đạo Khiêm, Long Khiêm, Cư Khiêm, Lý Khiêm…”. Theo đó, vị trí của lăng hoàng đế Tự Đức được lựa chọn trong mối quan hệ chặt chẽ với các di tích khác theo nguyện vọng của chủ nhân: “Lên cao mà nhìn bốn phía thì trước mặt là đàn Nam Giao, sau lưng là chùa Linh Mụ đã đủ rõ chí hướng bình sinh của ta rồi. Lúc sống chưa thể bày tỏ hết lòng thành thì khi chết lại được mãi mãi chầu hầu. Bên phải gần Xương Lăng, bên trái đối diện Văn Miếu đủ để an ủi niềm yêu mến ngưỡng mộ thành thực của ta, để ngày kia hồn phách ta có nơi nương tựa dài lâu thủy chung như nhất” (Khiêm Cung Ký).
Xét cả về nghệ thuật tạo hình, trang trí mỹ thuật và nội dung bi ký, bia Khiêm Cung Ký có hình thức và nội dung độc đáo nhất trong các bia đá cùng loại ở Việt Nam.
Năm 2015, Bia Khiêm Cung Ký được công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam.
6. ÁO TẾ GIAO TRIỀU NGUYỄN
Dưới thời quân chủ, lễ tế Giao là nghi lễ quan trọng nhất của quốc gia. Trên cương vị Thiên tử (con Trời), hoàng đế triều Nguyễn thay mặt thần dân để tế Trời, cầu mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Khi tế, hoàng đế mặc áo thêu hình rồng 5 móng, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, mây, núi, chim trĩ, sóng nước, rong tảo…
Hoàng đế Khải Định trong trang phục tế Giao (1924)
Trong nhiều loại trang phục cung đình, duy nhất chỉ có chiếc áo này mới được trang trí những hình ảnh mang nhiều ý nghĩa biểu trưng như vậy. Vì thế, chiếc áo mà hoàng đế triều Nguyễn mặc khi tế Giao không chỉ là trang phục mà còn là vật biểu trưng cho vai trò của hoàng đế trong mối liên hệ giữa trời đất và con người. Trong số trang phục cung đình thời kỳ quân chủ Việt Nam, đây là chiếc áo tế Giao duy nhất còn lại cho đến ngày nay.
Ngày 25/12/2015, Áo tế Giao triều Nguyễn được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam theo Quyết định số 2382/QĐ-TTg. Hiện nay, Áo tế Giao triều Nguyễn được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (Số 3 Lê Trực, phường Thuận Thành, thành phố Huế).
7. BỘ SƯU TẬP VẠC ĐỒNG THỜI CHÚA NGUYỄN
Bộ sưu tập vạc đồng thời Chúa Nguyễn gồm 11 chiếc có niên đại 1659 - 1684. Cụ thể vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1613-1635) và Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) để tượng trưng cho sức mạnh và sự trường tồn của chính quyền Đàng Trong. Hiện có 7 chiếc đặt tại Hoàng Cung, 3 chiếc đặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế và 1 chiếc đặt tại Lăng Đồng Khánh.
Những chiếc vạc được đúc vào những thời điểm khác nhau trong thế kỷ XVII, chiếc có niên đại sớm nhất là năm 1659 và chiếc có niên đại muộn nhất là năm 1684. Căn cứ vào những chữ Hán khắc trên một số vạc như: nhất song (một cặp); nhị song (hai cặp); tam song (ba cặp)... có thể khẳng định rằng, vào thời điểm đó, số lượng vạc đồng được đúc nhiều hơn số lượng hiện tồn. Tuy nhiên, trải qua nhiều biến động trong các cuộc chiến tranh và sự thay đổi của các triều đại, nhiều chiếc trong số đó hiện không còn nữa.
Trên vành miệng mỗi chiếc vạc đều có ghi niên đại, trọng lượng, số lượng vạc đúc nếu là một cặp (2 cái) hoặc một bộ (3 cái).
Trong số các hiện vật, di vật thời chúa Nguyễn còn lưu giữ lại được đến ngày nay, xét về quy mô và số lượng, bộ sưu tập vạc đồng gồm những hiện vật đồng chất, có cùng loại hình lớn nhất. Không chỉ thống nhất về loại hình, kiểu dáng (hình trụ, sâu lòng, đáy lõm) và đa dạng về kích thước, trọng lượng, bộ sưu tập vạc đồng thời chúa Nguyễn còn là những tác phẩm mỹ thuật đặc sắc thể hiện sự kế thừa văn hóa cội nguồn Thăng Long nhưng đồng thời cũng mang tính sáng tạo của cư dân vùng đất mới Đàng Trong trong thế kỷ XVII. Tính sáng tạo ấy là kết quả của phần tích hợp văn hóa bản địa kết hợp với những yếu tố ngoại lai - kết quả của quá trình giao lưu với văn hóa phương Tây trong việc tiếp nhận kỹ thuật đúc đồng của người Hà Lan thời kỳ này.
Hình ảnh 360o bộ sưu tập Vạc đồng thời chúa Nguyễn
Ngoài những motif trang trí truyền thống của Việt Nam như văn lá đề, hoa, chim thú, quai tạo hình rồng, trên các vạc đồng này còn có những motif trang trí khá lạ mắt mang phong cách mỹ thuật phương Tây. Điều này cho thấy rất có khả năng những chiếc vạc này được đúc dưới sự cố vấn của người nước ngoài trong thời gian họ ở lại làm việc cho chính quyền Đàng Trong, điều khá phổ biến vào thời kỳ này.
Hiện tại Huế còn 15 chiếc vạc đồng nhưng chỉ có 11 chiếc vạc được làm thời Chúa Nguyễn được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Còn lại 4 chiếc vạc thời Minh Mạng có niên đại 1825-1828, được đặt tại điện Hòa Khiêm, lăng Tự Đức.
Bộ sưu tập vạc đồng tại Huế không chỉ là những hiện vật mang tính lịch sử mà đây còn là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, thể hiện rõ sự phát triển của nghề đúc đồng tại Huế xưa kia, đồng thời là những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật cao.
Nguồn tư liệu tham khảo: Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế, Cinet,...