menu_open
Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn
Xem cỡ chữ:
Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn tại Lệ Châu hội quán (ảnh minh họa)
Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn được tổ chức vào ngày 7/2 Âm lịch hàng năm, quy tụ hàng trăm người trong ngành thợ kim hoàn trong cả nước tề tựu về tham dự. Tại Huế - vùng đất khai mở nghề Kim hoàn Việt Nam, nơi thờ hai vị tổ sư có công khai sáng, truyền dạy nghề kim hoàn là ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương càng được tổ chức quy mô, trọng thể.
Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn tại Lệ Châu hội quán (ảnh minh họa)
Địa chỉ: Số 7, đường Chùa Ông, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Thời gian hoạt động: Ngày mùng 7 tháng 2 Âm lịch

Giới thiệu:

Qua bao nhiêu biến động thăng trầm của lịch sử, hàng trăm bảo vật của triều Nguyễn như: ấn vàng, kiếm vàng, sách vàng, đồ ngự dụng bằng vàng… vẫn còn được bảo quản, gìn giữ khá nguyên vẹn tại các bảo tàng, di tích. Đây là những bảo vật vô giá của dân tộc Việt Nam, không những chứa đựng các giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật đặc sắc mà còn phản ánh tài nghệ khéo léo, tinh tế của các bậc thầy nghệ nhân kim hoàn cung đình xưa.

Lịch sử hình thành:

Vị Đệ nhất tổ sư Cao Đình Độ sinh năm Giáp Thìn (1744), tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và được truyền thụ nền giáo dục Nho giáo. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng (tức là hàn khay gãy, bịt chén bể…). Vào thời đó, các chúa Nguyễn nắm trong tay được nhiều mỏ vàng, đặc biệt là mỏ Bồng Miêu ở tỉnh Quảng Nam. Nhờ thế mà đồ trang sức trong phủ chúa đều làm bằng vàng. Nhưng nghề kim hoàn ở nước ta chỉ mới phôi thai, dân ta chưa có ai thành thạo nghề này. Các vật dụng quý, đồ trang sức của vua chúa hay quan lại đều phải thuê thợ kim hoàn người Trung Quốc chế tác. Những người thợ này, hoặc theo thuyền buôn sang thông thương, hoặc xin trú ngụ để hành nghề. Họ giấu nghề rất kỹ, không cho người địa phương biết để giữ độc quyền hành nghề. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nhận ra sự thiệt thòi của nền thủ công mỹ nghệ nước nhà, thường rất băn khoăn nên đã ra lệnh cho quan lại tìm cách hợp tác sản xuất, kinh doanh nhưng đều không có kết quả.

Trong hoàn cảnh đó, với niềm đam mê lớn trong người thợ trẻ Cao Đình Độ muốn trở thành một người thợ kim hoàn xuất sắc, ngày đêm luôn thôi thúc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề kim hoàn, ông phải dành nhiều thời gian học tiếng Hoa, theo dõi lối sinh hoạt, giao thiệp của họ, cải trang thành người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc trong cả nước.

Với vốn Nho học phong phú cộng thêm tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm kim hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Mặc dù, người Hoa có tiếng là giữ nghề, không truyền cho người ngoài, nhưng với tư chất thông minh, lanh lợi sẵn có, cộng với đôi bàn tay khéo léo và sự cần cù, sáng tạo nên ông quan sát tìm hiểu và nắm bắt được bí quyết nghề kim hoàn của người Hoa. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo, đủ sức tranh tài với những thợ kim hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.

Năm Quý Mão (1783), quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, đường vào Thuận Hóa thông thương nên ông đã cùng vợ con men theo bờ biển vào nam và dừng chân lập nghiệp tại làng Kế Môn (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Tại đây, ông đã truyền nghề cho con trai mình là Cao Đình Hương. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, Cao Đình Hương tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một người thợ thành thục trong nghề kim hoàn tại Thuận Hóa. Và ông Cao Đình Độ còn truyền nghề cho một số

Nét đặc trưng:

Hằng năm, Lễ tế tổ nghề kim hoàn vào ngày 7/2 Âm lịch được xem là ngày hội của những người sản xuất, kinh doanh vàng bạc trong khắp cả nước. Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn được tổ chức rất qui mô, quy tụ hàng trăm người trong ngành thợ kim hoàn, không chỉ riêng ở Huế mà từ các tỉnh thành trong cả nước cũng về dự, cúng bái các vị tổ sư có công khai sáng, truyền dạy nghề kim hoàn. Đồng thời, đây còn là dịp để các đồng nghiệp gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, chia sẻ những chuyện buồn vui trong cuộc sống đời thường.

Lễ tế tổ nghề kim hoàn là một hoạt động tâm linh đặc trưng, khá quy mô, thu hút nhiều người thợ kim hoàn và cả du khách thập phương tham gia, thể hiện sự phát triển của nghề kim hoàn không chỉ ở qui mô sản xuất mà còn ở những hoạt động sinh hoạt văn hóa tinh thần, nghề nghiệp. Lễ hội này cũng phản ánh đặc trưng sự kết hợp giữa cầu quốc thái dân an và tế tổ nghề. Qua lễ hội này, minh chứng tinh thần tri ân, tôn vinh lịch đại tổ nghề, các vị tiền hiền góp phần làm phong phú thêm đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân xứ Huế nói riêng và cả nước nói chung. 

Từ hai Cụ Tổ họ Cao, nghề Kim hoàn đã được lưu truyền, phát triển khắp ba miền đất Việt và một số nước trên thế giới từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, nghề kim hoàn trở thành một ngành nghề thủ công truyền thống được ưa chuộng, không chỉ vì giá trị kinh tế mà còn cả trình độ thẩm mỹ của những mặt hàng kim hoàn chứa đựng nhiều sắc thái Việt. Và khu lăng mộ của tổ nghề Kim hoàn Việt Nam trên đất Huế luôn được các đệ tử, con cháu gìn giữ hương khói và là nơi hành hương linh thiêng của những ai theo nghề kim hoàn để tri ân những bậc tiền nhân đã có công khai mở một nghề để lại danh thơm và hồn thiêng dân tộc.

Giá trị nghệ thuật:

Di tích nhà thờ Tổ Nghề Kim hoàn được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 168-QĐ/VH, ngày 2/3/1990 của Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch)./.

Gợi ý liên quan:

Tại Huế, các sản phẩm kim hoàn được trưng bày tại Tịnh Tâm Kim Cổ (đối diện với di tích Hồ Tịnh Tâm, đường Đinh Tiên Hoàng, thành phố Huế) của Nghệ nhân nhân dân Trần Duy Mong, rất thuận tiện cho du khách thập phương thưởng lãm. Tại đây có một bảo tàng thu nhỏ về nghề kim hoàn xứ Huế. Gia chủ bài trí khá nhiều hiện vật quý và có giá trị như các bản sao sắc phong của vua nhà Nguyễn dành cho nghề kim hoàn Huế; các dụng cụ cổ dùng chế tác kim hoàn như búa, kìm, kẹp, dùi, giũa, khuôn, đèn khò, bể thổi… Không gian chế tác, nơi làm việc của thợ cũng được sắp đặt, bài trí mang hơi hướng cổ, khiến cho khách tham quan như cảm nhận được môi trường, không khí làm việc của thợ kim hoàn xưa.

Tại các kỳ Festival nghề truyền thống Huế, người làng Kế Môn - làng nghề truyền thống kim hoàn xứ Huế đều tham dự để góp phần tôn vinh một làng nghề "danh bất hư truyền" tại Cố đô.

Các bài khác