Tổ nghề kim hoàn Việt Nam – Cao Đình Độ – sinh năm Giáp Thìn (1744) tại Thanh Hóa. Thuở nhỏ ông ham học, giàu ý chí, lớn lên làm nghề bịt đồng. Trong bối cảnh nghề kim hoàn còn sơ khai, ông đã cải trang thành người Hoa, xin vào làm công cho một tiệm vàng ở Thăng Long để học nghề. Với sự thông minh, cần cù và đức hạnh, ông đã lĩnh hội tinh hoa nghề chế tác vàng bạc từ người Hoa, đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo.
Năm 1783, ông cùng gia đình vào lập nghiệp tại làng Kế Môn (Huế), nơi ông truyền nghề cho con trai là Cao Đình Hương và các học trò họ Huynh và Trần. Dưới thời vua Quang Trung, ông được vời vào triều, lập đội Cơ vệ Ngân Tượng chuyên chế tác trang sức cung đình. Cả hai cha con đều được phong chức Lãnh binh và phó Lãnh binh, sống tại làng Cao Hậu (nay là phường Hương Sơ, TP. Huế).
Sau khi triều Nguyễn được thiết lập, vua Gia Long vẫn trọng dụng cha con ông, giao tiếp tục nhiệm vụ bảo tồn nghề trong Kinh thành. Các sản phẩm kim hoàn từ trâm cài, hoa tai, nhẫn, vòng… ở Phú Xuân đều do thợ làng Kế Môn chế tác. Năm 1810, ông Cao Đình Độ mất, được vua phong là Đệ nhất tổ sư. Con trai ông – Cao Đình Hương – tiếp tục sự nghiệp, nhưng sau quyết định từ quan để về quê truyền nghề cho học trò, lan tỏa nghề kim hoàn khắp ba miền đất nước. Ông mất năm 1821, được vua Minh Mạng sắc phong Đệ nhị tổ sư, mộ phần an táng bên cạnh cha tại Trường Cởi (nay là phường Trường An).
Từ hai cha con ông – Cao Đình Độ và Cao Đình Hương – nghề kim hoàn được truyền lại cho nhiều thế hệ, lan rộng từ miền Trung ra Bắc và vào Nam, góp phần định hình một ngành nghề thủ công truyền thống có giá trị cao về văn hóa và nghệ thuật