menu_open
Chùa Diệu Đế
Xem cỡ chữ:
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội. Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế, là một trong ba ngôi quốc tự dưới triều Nguyễn còn lại trên đất Huế.

Giới thiệu:

Chùa Diệu Đế nằm bên bờ sông Hộ Thành, gần cầu Gia Hội, có địa chỉ cụ thể ở số 100B đường Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế.

Chùa được tôn tạo vào tháng 3 năm Thiệu Trị 4 (1844) trên mảnh đất nguyên là vườn nhà của Phúc Quốc công (tức Nguyễn Phúc Miên Tông con vua Minh Mạng. Sau này Miên Tông lên ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị). Chùa là một trong ba ngôi Quốc tự dưới triều Nguyễn. Đến nay Chùa Diệu Đế vẫn là một trong những ngôi cổ tự đẹp nhất còn lại trên đất Huế.

 

Lịch sử hình thành:

Chùa Diệu Đế nguyên là nhà cũ của Phúc Quốc Công (ông ngoại của vua Thiệu Trị), nơi nhà vua Thiệu Trị ra đời năm 1807. Sau khi lên ngôi, vua Thiệu Trị đã cho xây dựng chùa Diệu Đế tại “tiềm để” của mình.

Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh đô Huế.


Hương án tôn trí kim vị vua Thiệu Trị tại chùa Diệu Đế (Ảnh: Hiếu Trương)

Tháng 6/1885, vua Hàm Nghi cho triệt giải chùa Giác Hoàng trong Kinh Thành và chuyển các tượng Phật ra thờ tại chùa Diệu Đế. Nhưng sau đó kinh đô thất thủ, phủ đường Thừa Thiên bị Pháp chiếm đóng, triều đình Đồng Khánh sử dụng Trí Tuệ Tinh Xá làm phủ đường của phủ Thừa Thiên, Cát Tường Từ Thất làm sở đúc tiền, hai nhà Tả, Hữu tăng phòng được dùng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám và nhà lao của phủ Thừa Thiên.

Năm 1887, nhiều dãy nhà bị triệt bỏ, chùa chỉ còn lại điện Đại Giác, gác Đạo Nguyên, 2 cổ lâu bát giác và cửa tam quan.

Năm 1910, lại dẹp bỏ gác Đạo Nguyên và hai lầu chuông trống, chùa Diệu Đế ngày càng xuống cấp.

Năm 1930, trong phong trào chấn hưng Phật giáo, chùa Diệu Đế được dùng làm trụ sở của Hội Phật học An Nam.

Năm 1950, điện Đại Giác được xây dựng lại, đổi tên thành điện Đại Hùng, hai bên có hai nhà Lôi Gia. Sau điện Đại Hùng là tăng xá và các nhà phụ của chùa.

Tháng 5/1885, kinh thành bị thất thủ, quân Pháp chiếm đóng một số địa điểm quan trọng của triều đình. Nam Triều phải lấy Trí Tuệ tịnh xá, Cát Tường từ thất của chùa Diệu Đế để làm trú sở cho phủ đường Thừa Thiên.

Năm 1887, đa số các dãy nhà của chùa bị triệt hạ. Còn lại Đại Giác điện, Chung lâu, Đạo Nguyên các, cổ lâu, trung đình và tam quan lâu còn giữ lại. Năm 1889, vua Thành Thái ban cho Hòa thượng Thanh Minh - Tâm Truyền 3000 quan tiền để trùng tu chùa Diệu Đế, tuy nhiên vẫn không thể khôi phục lại quy mô như cũ.

Năm 1904, một cơn bão lớn đã làm sụp đổ một số điện thờ. Đến năm 1910, gác Đạo Nguyên do bị hư hỏng nặng nên phải triệt hạ, chỉ còn hại cổ lâu và chung lâu. Đến năm 1953, Hòa thượng Diệu Hoằng đã trùng tu lại chùa dưới sự giúp sức của bà Từ Cung và các Phật tử. Chùa Diệu Đế khi ấy có quy mô được thu gọn như ngày nay.

Năm 2018, Quốc tự Diệu Đế được khởi công đại trùng tu. Toàn bộ phần chánh điện cũ có từ năm 1953 được giữ lại nguyên vẹn.

Nét đặc trưng:

Chùa Diệu Đế là một danh lam tiêu biểu của Huế, vùng đất được mệnh danh là xứ sở Thiền kinh. Hàng năm, Lễ tắm Phật, rước Phật của Phật giáo Huế được tổ chức tại chùa trong mùa Phật đản. Điểm đặc biệt ở đây là ngôi chùa này mang nhiều đặc trưng yếu tố cung đình, gắn liền với vua Thiệu Trị, vị hoàng đế thứ ba của triều Nguyễn.

Kể từ khi ra đời cho đến năm 1945, chùa Diệu Đế được triều Nguyễn xếp vào hàng Quốc tự (cùng với các chùa Giác Hoàng, Thiên Mụ và Thánh Duyên). Cho đến nay, dù trải qua nhiều biến động lịch sử, chùa vẫn giữ được nhiều pháp bảo quan trọng. Đặc biệt, tại trần của điện Đại Giác vẫn còn bảo tồn được bức tranh “Long vân khế hội”, tương truyền do nghệ nhân cung đình Phan Văn Tánh thực hiện.


Bức tranh "Long vân khế hội" trên trần điện chùa Diệu Đế

Kiến trúc:

Khuôn viên chùa hiện nay rộng khoảng 2.500m2. Chung quanh có la thành bao bọc, cửa chùa hướng về sông Đông Ba và Kinh Thành Huế. Khi mới xây dựng, bên trong la thành có khoảng 10 công trình kiến trúc.

Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải là đường Chùa Ông. Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô. Tuy không đẹp bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia). Nét kiến trúc độc đáo này đã đi vào ca dao Huế: "Đông Ba Gia Hội hai cầu - Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông".

Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn. Hệ thống La Thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có Phượng Môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền khoảng mười bậc lên xuống.

Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ...về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.

Hiện nay, chùa chỉ còn chính điện, hai bên chính điện đặt Bát Bộ Kim Cang, phía sau có một nhà khách, một bếp. Sân ngoài có nhà bia, nhà chuông, ngoài cùng là cổng Tam Quan hai tầng, phía trên có lầu Hộ Pháp.

Video Youtube:

Bản đồ:

Các bài khác