Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, mỗi đỉnh đều được đặt trên một phiến đá lớn rất vững vàng, nằm theo thứ tự đối diện với các án thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Đỉnh được đặt nhích về phía trước 3m với hàm ý để tôn vinh công lao to lớn của vị vua đầu tiên của triều đại.
Cửu đỉnh Huế gắn liền với Thụy hiệu các vua nhà Nguyễn
Lấy Cao đỉnh làm chuẩn, bên trái lần lượt là Nhân đỉnh, Anh đỉnh, Thuần đỉnh, Dụ đỉnh, bên phải lần lượt là Chương đỉnh, Nghị đỉnh, Tuyên đỉnh, Huyền đỉnh. Nhân đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Thánh Tổ, Chương đỉnh dối diện với án thờ vua Nguyễn Hiến Tổ, Anh đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Dực Tông, Nghị đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Giản Tông, Thuần đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Cảnh Tông, Tuyên đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Hoằng Tông, Dụ đỉnh đối diện với án thờ vua Hàm Nghi, Huyền đỉnh đối diện với án thờ vua Duy Tân.
Cao đỉnh được đặt ở giữa Cửu đỉnh và được đặt nhích về phía trước 3m với hàm ý để tôn vinh công lao to lớn của vị vua đầu tiên của triều đại nhà Nguyễn - Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long
Với chức năng là trọng khí được đặt trước sân Thế Miếu của nhà Nguyễn, tượng trưng cho sự nghiệp của bậc đế vương, tên gọi của mỗi đỉnh theo chủ ý của vua Minh Mạng đó chính là thụy hiệu của các vua triều Nguyễn. Chẳng hạn, Cao đỉnh chính là thụy hiệu của Thế tổ Cao hoàng đế, Nhân đỉnh là thụy hiệu của chính vua Minh Mạng (Thánh tổ Nhân hoàng đế), Chương đỉnh là thụy hiệu của vua Thiệu Trị (Hiến tổ Chương hoàng đế), Anh đỉnh là thụy hiệu của vua Tự Đức (Dực tông Anh hoàng đế), Nghị đỉnh là thụy hiệu vua Kiến Phúc, Thuần đỉnh là thụy hiệu của vua Đồng Khánh, Tuyên đỉnh là thụy hiệu của vua Khải Định. Các vua Dục Đức, Hiệp Hòa bị Tôn Thất Thuyết phế truất, vua Hàm Nghi dưới sự giúp sức của Tôn Thất Thuyết đã xuống dụ Cần Vương kêu gọi văn thân, sĩ phu đứng lên giúp vua cứu nước chống Pháp, hai cha con vua Thành Thái, Duy Tân bị người Pháp phế truất và lưu đày, vua Bảo Đại thoái vị... đều không được đặt tên miếu hiệu và thụy hiệu. Do đó, tên của Dụ đỉnh và Huyền đỉnh không trở thành thụy hiệu của bất kì vị vua nào triều Nguyễn.
Cửu đỉnh được coi là vật báu chốn thâm nghiêm trước Thế Miếu, nơi thờ các vua nhà Nguyễn, là một tượng đài tượng trưng cho sự vĩnh trường của vương triều, thể hiện quyền uy và sự vững mạnh của một triều đại thống nhất.
Cửu đỉnh - Cuốn sách ảnh về sinh học Việt Nam
Cửu đỉnh không chỉ là hình trang trí đơn thuần mà thực sự là một bộ cẩm nang có minh họa và chú thích đầu tiên của nước ta về sự đa dạng sinh học. Trong số 162 họa tiết chạm nổi trên các đỉnh đồng của nhà Nguyễn ở Huế, có tới 90 hình ảnh là về các loài động thực vật đặc trưng của Việt Nam. Các họa tiết này đều thể hiện một cách sống động các loài động thực vật, nhiều chỗ chạm khắc khá chi tiết những đặc điểm nổi bật của các loài.
Tất cả loài động thực vật do vậy đều có thể nhận dạng dễ dàng qua các hình khắc đồng trên Cửu đỉnh. Thực vật trên Cửu đỉnh với 54 họa tiết, có thể phân thành 6 nhóm: cây lương thực, cây lấy sợi, rau và cây gia vị, cây lấy quả, các loại hoa, các loại gỗ, dược liệu và hương liệu. Động vật gồm có: loài cá, ốc, côn trùng; chim; thú lớn bốn chân; các loài vật linh. Cửu đỉnh nhà Nguyễn có thể nói là một bộ sách ảnh các loài động thực vật đặc trưng của nước ta, thể hiện một thiên nhiên phong phú, quý giá. Đó cũng có thể coi là một cuốn Sách đỏ Việt Nam hay một Danh mục các loài cần được bảo vệ của thời xưa.
Cửu đỉnh có ý nghĩa quốc tế
Cửu đỉnh được viết bằng chữ Hán và các tư liệu được thể hiện bằng các hình ảnh đúc nổi với nội dung chủ đạo liên quan đến các địa danh, thụy hiệu của vua, các sinh vật, cây trồng, sông núi …và đặc biệt là việc khẳng định chủ quyền biển đảo. Cửu đỉnh chạm khắc nhiều địa danh sông núi, biển đảo... của đất nước được thể hiện rất rõ ràng, minh xác. Đặc biệt, trong 9 đỉnh có 3 đỉnh vua Minh Mạng cho khắc hình tượng về biển để thể hiện bao quát về biển đảo nước Việt: Biển Đông ở Cao đỉnh; biển Nam ở Nhân Đỉnh và biển Tây ở Chương đỉnh, là 3 cái đỉnh to cao nhất và quan trọng nhất.
Như vậy, cùng với hàng loạt tài liệu Hán - Nôm cổ, những hình ảnh biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh sẽ là một nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời còn cho đời sau thấy được rằng, các vị vua triều Nguyễn đều một lòng ra sức bảo vệ và thực thi chủ quyền biển đảo của đất nước.
Chữ Hán là ngôn ngữ để dùng của một số nước ở khu vực Đông Á, có tính phổ biến cao, có giá trị đối với cộng đồng. Trong cái nhìn so sánh cho ta biết rằng: trong hoàng cung các triều đại ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc không có đúc Cửu đỉnh nào tương tự như ở Cố đô Huế thời Nguyễn. Thậm chí, ngay tại Việt Nam, các triều đại trước đó cũng không để lại một dạng tư liệu nào như vậy.
Cửu đỉnh thể hiện trình độ và kỹ thuật đúc đồng rất tinh xảo
Cửu đỉnh là “bộ bách khoa thư” về đất nước Việt Nam thống nhất, có chủ quyền được thể hiện dưới hình thức biểu trưng bằng hình ảnh. Trên thân mỗi đỉnh được đúc tạo và khắc nổi những họa tiết, hoa văn thể hiện một trình độ rất cao, tay nghề tinh xảo của những nghệ nhân đúc đồng nước ta dưới thời nhà Nguyễn. Để làm nên Cửu đỉnh, người thợ phải làm ra những chiếc khuôn đúc với tỉ lệ chuẩn xác nhất định, đây là công đoạn quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc đúc Cửu đỉnh nói riêng. Do đó, đòi hỏi những nghệ nhân phải kiên trì và có sự tập trung cùng một sự am hiểu nhất định.
Cửu đỉnh là sản phẩm độc bản, duy nhất và chứa đựng tầng lớp giá trị, ý nghĩa về chính trị, văn hóa, nghệ thuật, lịch sử... của Việt Nam
Theo sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” thì Cửu đỉnh được đúc theo lối thủ công truyền thống nên khuôn đúc được tạo theo lối thủ công. Để tạo nên những khuôn đúc, người ta rất kì công trong việc lựa chọn loại đất sét phù hợp. Khuôn đúc Cửu đỉnh là những chiếc khuôn độc bản, vì để tránh sự sao chép, sau khi đúc hoàn chỉnh, các khuôn đúc đều bị phá bỏ. Theo sử quan nhà Nguyễn thì khoảng thời gian đúc Cửu đỉnh phải đúc cách đoạn, đúc từng chiếc, đến gần bảy tháng mới đúc xong.
Cửu Đỉnh đạt đến trình độ tinh xảo nhất của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam thế kỷ XIX. Bằng tất cả sự khéo léo tài nghệ, thợ đúc đồng Huế đã đúc nên tuyệt tác, làm cho người Châu Âu phải kinh ngạc thán phục suốt gần 200 năm qua.